18/3, ngày chiến thắng biên giới phía Bắc
(Kỷ niệm 34 năm chiến tranh biên giới phía Bắc 18/3/1979 - 18/3/2013)
Vào
ngày này 34 năm trước, quân đội Trung Quốc buộc phải chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược và rời khỏi Việt Nam, để lại gần 3 vạn xác đồng đội
và 420 xác xe tăng, xe bọc thép các loại.
Sự thương vong và
thiệt hại của Trung Quốc đã không giúp cho ý đồ chiến lược nào của họ
đạt được: Họ không thể tiến về Hà Nội, xâm chiếm miền Bắc Việt Nam, chia
cắt lâu dài Việt Nam, thực hiện kế hoạch bành trướng lâu dài của chủ
nghĩa bá quyền đại dân tộc.
Họ không thể lấy miền Bắc nước ta làm
bàn đạp để lũng đoạn, thao túng, khống chế và thôn tính khu vực Đông
Dương và Đông Nam Á, hay trục lợi, cướp đoạt tài nguyên trong khu vực
địa chính trị - địa kinh tế quan trọng này, nối tiếp "truyền thống" chủ
nghĩa Đại Hán của phong kiến Trung Hoa.
Họ không thể sử dụng con
bài Hoàng Văn Hoan như các vương triều phong kiến của họ đã từng sử dụng
các con bài Trần Ích Tắc, Trần Thiêm Bình, Lê Chiêu Thống ngày xưa,
không thể tiến vào Hà Nội để đưa Hoan lên làm "thủ lĩnh anh minh", thiết
lập ngụy quyền, bắt lính, xây dựng ngụy quân. Thành lập "quốc gia", sau
đó thỏa thuận cho các đồng minh, đàn em công nhận và thiết lập ngoại
giao với "quốc gia" đó.
Trong cuộc chiến, Hoàng Văn Hoan khéo
giấu diếm sự thông đồng của mình với Trung Quốc mà chỉ thể hiện ra là
một phần tử Maoist cực đoan. Sau cuộc chiến, an ninh nội bộ của Việt Nam
lập tức đôn đốc thúc đẩy việc điều tra các nghi vấn về gián điệp Bắc
Kinh ở nước ta.
Ba tháng sau cuộc chiến, tháng 6 năm đó, an ninh
Việt Nam tìm được một số bằng chứng về sự thông đồng, đi đêm giữa Hoàng
Văn Hoan và đồng đảng với bọn bành trướng Bắc Kinh. Trung Quốc và Hoàng
Văn Hoan "đánh hơi" được, thế là Hoan dùng kế "ve sầu thoát xác", giả vờ
đi Đông Đức khám bệnh. Với sự trợ giúp của tình báo Trung Quốc, Hoàng
Văn Hoan thoát khỏi an ninh Việt Nam ở sân bay Karachi (Pakistan) rồi
được bọn bá quyền Bắc Kinh dàn xếp, an bài đưa về Trung Quốc.
Sau
khi bỏ trốn, Hoan bị Việt Nam kết tội phản quốc và tuyên án tử hình
vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự bán nước. Báo chí Việt Nam thời
đó gọi Hoan là "Lê Chiêu Thống tân thời". Bên Trung Quốc, Hoan vu cáo
Việt Nam là "đối xử với người Việt gốc Hoa còn tệ hơn cả cách Hitler đối
xử với người Do Thái".
Năm 1988, theo ý của Trung Quốc, Hoan
viết tự truyện "Giọt nước trong biển cả: Hồi ức cách mạng của Hoàng Văn
Hoan" nhằm tuyên truyền cho các quan điểm chính thức của Trung Quốc,
công kích Việt Nam (chiếm hầu hết nội dung), và đồng thời thanh minh tội
phản bội Tổ quốc và còn đề cao bản thân. Hoan nói ngược rằng ông ta mới
là người "vì dân vì nước". Hoan viết quyển sách đó bằng tiếng Trung,
sau khi được Trung Quốc duyệt, thông qua, và nhà xuất bản Bắc Kinh xuất
bản, Hoan dịch lại tiếng Việt và tự xuất bản bản tiếng Việt dưới tên
"Giọt nước trong biển cả".
Năm 1991, Hoan chết, Trung Quốc tổ
chức lễ tang cấp nhà nước, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo
Sơn, nơi chôn cất các quan chức cao cấp Trung Quốc. Như vậy, có thể nói
Trung Quốc đã coi Hoàng Văn Hoan là một loại "thần tử", "bề tôi", "An
Nam quốc vương" của họ.
Thất bại trong ý định sử dụng quân bài
Hoàng Văn Hoan như một giải pháp chính trị, Trung Quốc cũng thất bại
trong ý đồ xâm chiếm Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai để làm làm bàn đạp, làm
tiền đề xâm lược lâu dài.
Họ càng thất bại trong ý đồ làm tiêu
hao lực lượng chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự của Việt Nam,
xóa sổ các đồn biên phòng và phần lớn lực lượng vũ trang địa phương của
Việt Nam. Họ không tiêu diệt được sư đoàn hay lực lượng lớn nào của Việt
Nam.
Họ cũng thất bại thảm hại trong ý đồ gây sức ép, áp lực
buộc Việt Nam phải bỏ dở nghĩa vụ quốc tế lật đổ chế độ diệt chủng và
tái thiết nước bạn ở Campuchia. Họ không ép được Việt Nam thay đổi bất
kỳ chính sách đối ngoại, đối nội nào với Trung Quốc, các nước, và các
tầng lớp người Hoa.
Sự phá hoại, cướp bóc, hủy diệt của họ không
đẩy được nền kinh tế và chế độ chính trị Việt Nam tới chỗ rạn nứt và sụp
đổ. "Bè lũ Lê Duẩn" vẫn còn đó thì họ càng không có cơ hội nào đưa
Hoàng Văn Hoan về nước làm "thủ lĩnh anh minh".
Người lính già đầu bạc,
Kể mãi chuyện biên cương.
Tóm lược diễn biến chiến sự
Ngày
16 tháng 2 năm 1979, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá
luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "đội quân thứ 5" lập thành các
toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu, với mưu
đồ ngăn chặn quân tiếp viện của ta từ phía sau lên. Trước giờ khai
chiến, các lực lượng đặc biệt nằm vùng của địch cũng bí mật cắt được
phần lớn đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt,
trận địa pháo. Cho thấy cuộc xâm lược này đã được kẻ địch tính toán rất
chu đáo và tỉ mỉ.
Ngày 17 tháng 2, Trung Quốc mở đầu giai đoạn 1
của cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc nước ta với hơn 12 vạn quân. Mở
đầu là lực lượng pháo binh, tiếp theo là xe tăng, xe bọc thép và bộ
binh. Quân địch chia làm nhiều hướng tấn công 26 địa điểm của ta, đặc
biệt là Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Móng Cái, Mường Khương. Tất cả các
hướng tấn công đều có hàng hàng lớp lớp xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân
đội viễn chinh do Thượng tướng Hứa Thế Hữu tổng chỉ huy và Thượng tướng
Dương Đắc Chí phụ tá. Đây là hai tướng tài của quân đội Trung Quốc trong
thời điểm đó.
Đặng
Tiểu Bình, một lãnh tụ nhiều tham vọng, được nhớ đến với hình ảnh vừa
là một nhà cải cách tài ba, vừa là một tên đồ tể khát máu.
Từ
trái sang phải: Hứa Thế Hữu, tư lệnh Quân khu Quảng Châu và Dương Đắc
Chí, tư lệnh Quân khu Côn Minh (Năm 1985 Quân khu này sát nhập vào Đại
Quân khu Tây Nam - Thành Đô)
Hứa Thế Hữu xuất thân chùa Thiếu
Lâm (8 năm là đệ tử tục gia Thiếu Lâm Tự), là người văn võ song toàn.
Đầu tiên, ông ta tiến thân trên con đường binh nghiệp với quân phiệt Ngô
Bội Phu. Khi cuộc Quốc - Cộng nội chiến (tiếng Anh: Chinese Civil War)
giữa hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch nổ ra, các quan hệ
đối kháng lợi ích và hệ quả chiến cuộc dần đưa tới tình trạng Mao nắm
được lực lượng nông dân, công nhân, và đại đa số người dân lao động
Trung Quốc, Tưởng nắm được hoặc liên minh với giai cấp tư sản tài phiệt,
các băng đảng xã hội đen lớn (đặc biệt ở Thượng Hải), các chủ chứa, chủ
sòng bài, phần đông quân phiệt, và các chủ ngân hàng (ở đây còn là sự
hợp tác chặt chẽ giữa gia tộc Tưởng và gia tộc Khổng, trùm tài phiệt
ngân hàng Khổng Tường Hy anh em cột chèo của Tưởng Giới Thạch).
Khi
quân Nhật xâm lược Trung Quốc giữa cuộc nội chiến Quốc - Cộng thì cuộc
chiến ở Trung Quốc đã phát triển thành một cuộc chiến tranh tam giác
giữa Mao - Tưởng - Nhật. Tưởng Giới Thạch lúc đó trên cương vị là lãnh
tụ của Quốc dân đảng, phe mạnh nhất và đang có tư cách lãnh đạo chống
Nhật, kêu gọi tất cả các quân phiệt còn lại theo về dưới trướng. Thế là
lực lượng Ngô Bội Phu được sát nhập vào quân Tưởng và dĩ nhiên Hứa Thế
Hữu cũng theo về với Quốc dân đảng. Tuy nhiên sau đó không lâu, bất mãn
với thái độ mãi lo đánh người nhà mà lừng khừng trong việc chống Nhật
của Tưởng, ông ta được Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mời mọc và theo về.
Là
một người từng phục vụ trong 3 phe, 3 quân đội Trung Quốc khác nhau nên
có thể nói Hứa Thế Hữu là một viên tướng dày dặn kinh nghiệm sa trường.
Nhưng kinh nghiệm của ông ta vẫn chưa bằng Dương Đắc Chí, một viên
tướng từng chiến đấu sát cánh danh tướng Bành Đức Hoài trong nội chiến
Trung Quốc và chiến tranh Triều Tiên.
Về thực tài quân sự, Hứa
Thế Hữu không bằng Dương Đắc Chí. Nhưng về quan hệ thân tín với Đặng
Tiểu Bình thì Hứa Thế Hữu bỏ xa Dương Đắc Chí. Hứa Thế Hữu chính là một
trong những tay chân thân tín nhất của Đặng và đã ngày đêm bảo vệ Đặng
trong Cách mạng văn hóa.
Thời đó nội tình chính trị Trung Quốc
vẫn còn đang chưa ổn, do tin tưởng Hứa Thế Hữu hơn nên Đặng giao cho ông
ta làm tổng chỉ huy thay vì Dương Đắc Chí. Một phần do quyết định sai
lầm này mà quân Trung Quốc sau đó đã phải trả giá đắt. Nói chung, việc
Trung Quốc chọn hai tướng chỉ huy này cho thấy rõ là chúng quyết thắng
và đặt cược rất nặng vào cuộc chiến tranh xâm lược này.
Nhân cơ
hội quân chủ lực Việt Nam đang tham chiến ở Campuchia và đóng quân ở
miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho mặt trận Campuchia, Trung Quốc muốn
"tốc chiến tốc quyết" xâm chiếm, bình định các tỉnh và tiến vào Hà Nội
trước khi quân chủ lực Việt Nam về Bắc. Địch hung hăng xua quân tấn công
nhanh, chúng muốn đánh mau đánh mạnh, tốc chiến tốc thắng, giải quyết
chiến trường sớm và tiến về "ăn phở tại Hà Nội".
Quân địch tiến
rất thần tốc theo đúng kế hoạch, đúng lộ trình trong thời gian đầu,
nhưng ngay sau đó chúng nhanh chóng bị hụt hẫng và phải chững lại, phải
giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại với yếu tố địa lợi và nhân hòa của ta.
Hệ thống phòng thủ của ta ở biên giới rất mạnh, với các hầm hào, hang
động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và
huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là địch phải chịu thương vong lớn.
Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại khu vực Bát Xát, Mường Khương, Đồng
Đăng, Nam Quan, Thông Nông, Lào Cai và quanh sông Hồng.
Quân ta
dùng chiến thuật phòng ngự mềm dẻo, đánh tiêu hao, từng bước làm hao mòn
sinh lực địch, vận dụng chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích,
tận dụng địa thế hiểm yếu, ưu thế địa lợi, nhân hòa, phong thổ khắc
nghiệt với giặc, và tổ chức phục kích, đánh lén, đánh úp, khai thác yếu
tố bất ngờ. Có nơi vừa đánh vừa lui để dụ địch vào hiểm địa. Có nơi giữ
được chút nào hay chút nấy, cố gắng làm tiêu hao sinh lực của giặc.
Các
lực lượng vũ trang, nửa vũ trang của ta ở biên giới phía Bắc muốn câu
giờ để chờ các đơn vị chủ lực từ phía Nam quay về trợ chiến, cùng nhau
tổng phản công. Cho nên, càng giằng co dai dẳng với giặc lâu chừng nào
tốt chừng đó. Diễn biến chiến cuộc càng chậm chừng nào càng tốt chừng
đó. Dĩ nhiên điều này trái ngược với ý đồ chiến lược của địch và làm phá
sản kế hoạch của chúng.
Ngày 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn.
Quân ta chống trả rất dũng cảm và với tinh thần quyết chiến cao. Kẻ thù
hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình
nhỏ và thay đổi chiến thuật liên miên, tiền hậu bất nhất. Họ tiến chậm
chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và tiến vào Mường
Khương, Trùng Khánh, và Đồng Đăng.
Tại Móng Cái, ta và địch giành
giật dai dẳng. Gần 5000 tên xâm lược đã bỏ xác trong những ngày đầu
này. Trong những ngày này, quân Tàu đã tấn công vào được 11 làng chiến
đấu và thị trấn sau khi bị chống cự quyết liệt. Nhưng địch cũng không
thể sử dụng được nhiều tài nguyên trong những vùng tạm chiếm. Chúng
không thể "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" vì gặp khó khăn trước kế
"vườn không nhà trống" của người Việt.
Ngày 22 tháng 2, trong
trận đánh Đồng Đăng, quân địch dùng vũ khí hóa học độc hại của phát xít
Nhật mà chúng cướp được trước đây, bắn vào các lỗ thông hơi làm thiệt
mạng cả những thương bệnh binh cũng như dân lành vô tội. Đây là tội ác
chiến tranh.
Trước tình hình chiến sự lan rộng tới Hà Tuyên,
Quảng Ninh và cả các khu đô thị ven biển ở Móng Cái, ta thành lập phòng
tuyến Yên Bái - Quảng Yên, là một tuyến phòng thủ cánh cung bao gồm
khoảng 3 vạn quân. Nhiệm vụ của phòng tuyến này là bảo vệ hai thành phố
lớn: Hải Phòng và đặc biệt là thủ đô Hà Nội.
Ngày 25 tháng 2, tại
Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng
Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các sư
đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư
đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Ngày 27 tháng 2, do
nhiều thất bại quân sự, bị hao binh tổn tướng, và chịu tổn thương nặng
nề trước Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã "thay tướng giữa
trận", đành phải đưa Dương Đắc Chí lên thay Hứa Thế Hữu, thân tín của
ông ta.
Đây là giai đoạn bộc lộ rõ tham vọng xâm lược của Trung
Quốc. Đặng tiếp tục điều quân từ Trung Quốc sang Việt Nam để tăng viện
và trợ chiến. Điều này đã cho thấy những lời tuyên bố "cuộc chiến giới
hạn", "có thể sẽ rút quân" chỉ là những thủ đoạn để gây rối thông tin và
lừa dối dư luận. Một mặt Trung Quốc tuyên bố đây là cuộc chiến "giới
hạn", mặt khác chúng điều thêm quân. Chúng vừa tuyên bố "có thể sẽ rút
quân" vừa tăng cường thêm quân mới. Thay vì rút quân về sau giai đoạn 1,
thì Đặng Tiểu Bình tiếp tục giai đoạn 2 và bổ sung, tăng cường thêm
đông đảo viện binh từ chính quốc.
Tại Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung
Quốc đánh mãi không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141
QĐNDVN. Tại đường 1B, sư đoàn 161 Trung Quốc đang tiến quân thì bị trung
đoàn 12 QĐNDVN xáp vào "bám thắt lưng địch mà đánh". Tại đường 1A, một
mình trung đoàn 2 QĐNDVN vừa chặn đánh sư đoàn 160 Trung Quốc từ phía
Bắc vừa chống lại cánh quân của sư đoàn 161 Trung Quốc từ hướng Tây Bắc,
một mình đánh trả hai cánh quân của giặc chia quân đánh ập vào hai bên
hông, bên sườn của mình.
Trong những ngày còn lại của tháng 2 năm
1979, quân Trung Quốc mở rộng tấn công nhưng tiến rất chậm và bị tổn
thất nặng nề. Quân Việt Nam mở cuộc phản công tự vệ vào huyện Ninh Minh
(tỉnh Quảng Tây), huyện Ma Lật Pha (tỉnh Vân Nam), huyện Hà Khẩu (tỉnh
Vân Nam), huyện Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây), thị xã Bằng Tường (tỉnh
Quảng Tây) của Trung Quốc để phá bớt các kho hậu cần, chứa lương thực,
quân nhu, nhiên liệu, vũ khí đạn dược của địch tại đây, phá bớt đi những
công cụ mà giặc xâm lược dùng để tấn công Việt Nam.
Tại điểm cao
800, một tiểu đoàn quân đội Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ
đánh úp và chiếm được nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao
Vàng QĐNDVN. Tuy tạm chiếm được điểm cao 800, nhưng trong suốt các ngày
từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3, quân xâm lược vẫn không sao vượt
qua nổi đoạn đường 4 km để vào được thị xã Lạng Sơn, dù đã dùng cho
hướng tiến công này tới 5 sư đoàn đánh ập vào (đúng như lời Đặng Tiểu
Bình nói: 5 đánh 1).
Ngày 2 tháng 3, các sư đoàn 3, 337 của Quân
đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chắc chắn và giáng trả thật
mạnh vào các đợt tấn công lớn của quân xâm lược. Sư đoàn 337 QĐNDVN trụ
tại khu vực cầu Khánh Khê.
Ngày 4 tháng 3, Việt Nam tổng động
viên toàn quốc. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam viết lời
kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đứng lên chống Trung Quốc xâm
lược. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chấp bút viết bài "Nhân dân Việt Nam nhất
định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại" hưởng ứng
lời kêu gọi của Đảng và động viên toàn quân, toàn dân đứng lên chống xâm
lược.
Ngày 5 tháng 3, các sư đoàn chính quy của Quân đội Nhân
dân Việt Nam với xe tăng, đại pháo, máy bay chiến đấu đã rầm rộ kéo gần
đến mặt trận, chuẩn bị "chia lửa" với lực lượng biên giới và phản công
tổng lực giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 QĐNDVN với
các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh
thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã
tập kết sau lưng Quân đoàn 14 QĐNDVN.
Trung Quốc thấy các lực
lượng chủ lực của Việt Nam sắp đến nơi và các lực lượng chính quy khác
từ phía Nam cũng đang kéo quân ra trận. Trong khi bản thân quân đội
Trung Quốc đang bị thương vong và thiệt hại nặng nề, sĩ khí xuống thấp,
quân lực suy yếu.
Chỉ với lực lượng vũ trang, bán vũ trang ở địa
phương trong đó phần đông là du kích và tân binh mà chúng còn không vượt
qua nổi và bị tổn thất nặng nề phơi xác đầy đồng thì nếu chúng ở lại
chờ quân ta đến đánh thì kết quả thế nào e rằng một đứa trẻ cũng đoán
ra. Đặng Tiểu Bình là "cáo già" không phải một đứa trẻ, thế là quân
Trung Quốc bắt đầu rục rịch lui quân.
Chiến sự tiếp diễn ở một số
nơi. Một phần do sự tự vệ trước các hành động phá hoại, cướp bóc của
quân địch. Một phần do sự truy kích của quân ta. Phục binh của sư đoàn
338 QĐNDVN và quân tập kích của sư đoàn 337 QĐNDVN tổ chức phục kích
đánh quân Trung Quốc đang rút lui qua ngả Chi Mã và đã gây tổn thương
nặng nề cho giặc.
Báo chí đưa tin chiến thắng
Ngày
16 tháng 3, biên giới phía Bắc mới lặng yên tiếng súng. Những thương
bệnh binh đầu tiên thuộc các cánh quân đầu tiên của Trung Quốc được
khiêng trở về nước. Những quân lính không được khiêng thì phải chống
nạng. Các sĩ quan bị thương thì ngồi xe lăn. Họ bắt đầu "lết" về nước.
Một số tài liệu và học giả phương Tây cho rằng đây là ngày chính thức
kết thúc cuộc chiến.
Ngày 18 tháng 3 năm 1979,
những tên lính Trung Quốc cuối cùng ôm vết thương thể xác và tinh thần
rời khỏi Việt Nam, bỏ lại gần 3 vạn xác đồng đội. Quân đội Việt Nam đã
gây tổn thương nặng cho giặc và đánh lui chúng ra khỏi bờ cõi, bảo vệ
thành công miền Bắc và biên giới phía Bắc, viết thêm một trang sử oai
hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Phần lớn sử
liệu chính thống, tài liệu giáo khoa Việt Nam xem đây là ngày chính thức
kết thúc cuộc chiến.
Thiếu Long
http://my.opera.com/thieulongtexas/blog/34-nam-chien-thang-bien-gioi-phia-bac-18-3-1979-18-3-2013