Nhân dịp kỷ niệm 41 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
(còn có tên là chiến dịch Nguyễn Huệ), chúng tôi đã có dịp tiếp xúc và
nói chuyện với một người cán bộ cách mạng lão thành đã từng có mặt trong
những ngày tháng lịch sử đó. Qua lời kể của ông chúng ta hình dung
được, sự chuẩn bị cho trận đánh Mậu Thân diễn ra như thế nào, diễn biến
của trận đánh và sự trực tiếp chỉ đạo của những lãnh đạo cao cấp… Ông đã
dành một buổi sáng để tưởng nhớ và kể lại trận đánh lịch sử năm 1968.
Ông
Huỳnh Văn Cang (bí danh Tư Cang) nguyên là thư ký của ông Võ Văn Kiệt
trong giai đoạn đánh Mỹ. Một trong những người đầu tiên chuẩn bị cho
trận đánh Mậu Thân ở Sài Gòn này. Ông Tư Cang mặc dù tuổi đã cao nhưng
ông kể lại trận đánh một cách chi tiết khiến chúng tôi phải kinh ngạc,
ngỡ như là trận đánh Mậu Thân chỉ diễn ra mới ngày hôm qua. Có lẽ vì sự
kiện Mậu Thân có vai trò đặc biệt quan trọng mà với ông không bao giờ
quên được. Để mô tả cho tính chất của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân, đồng chí Lê Duẩn nói: “Một cú đập lớn để tung toé ra các khả
năng chính trị”. Và đúng như những gì ông nói thì trận đánh Mậu Thân là
một điểm nhấn rất lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc chiến tranh chống Mỹ
cứu nước.
Trận Tết Mậu Thân là một tổng công kích và tổng nổi
dậy của quân và dân miền Nam. Không chỉ riêng ở thành phố Sài Gòn mà là
nơi diễn ra những trận đánh ác liệt, mà Huế cũng được biết đến như là
một thành trì vững chắc và được nắm giữ lâu nhất trong cuộc tổng tấn
công Mậu Thân 1968.
Từ mùa khô 1966 – 1967, quân dân mình tiến
công mạnh và giành thắng lợi lớn trên chiến trường miền Nam. Đặc biệt là
chiến dịch Junction city (Gian-xơn Xi-ty) đã đánh một đòn mạnh mẽ vào
quân viễn chinh Mỹ. Sau thất bại này, Mỹ - ngụy chuyển từ thế phản công
chiến lược sang thế phòng ngự chiến lược. Vào tháng 1 – 1967, hội nghị
Trung ương 13 (khóa III) có bước chuẩn bị cho tổng công kích – tổng khởi
nghĩa. Ngày 25 – 10 – 1967, Trung ương Cục miền Nam đã ra nghị quyết về
tiến hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa (gọi là nghị quyết Quang
Trung và ráo riết chuẩn bị).
Chủ trương của quân dân miền Nam là
tấn công vào đô thị với mục đích là làm nản ý chí xâm lược của Mỹ, tạo
bước ngoặt của cục diện chiến tranh. Buộc Mỹ phải xuống thang chiến
tranh và chịu lên bàn đàm phán trong thế kém. Đồng thời bên cạnh đó phát
huy mặt trận nhân dân trong và ngoài nước chống đế quốc Mỹ. Đây là chủ
trương mang tính chất chiến lược táo bạo của cách mạng Việt Nam.
Ông
Huỳnh Văn Cang khi đó là một chiến sĩ với giác ngộ lí tưởng cách mạng
từ lúc còn trẻ đã tham gia hoạt động cách mạng trong những năm cuối của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam thì
ông tập kết ra Bắc. Đến 1965, ông trở lại miền Nam. Tại đây ông được
phân công xuống Sài Gòn – Gia Định làm cán bộ tuyên huấn. Đến 6 – 1967,
ông được điều về làm thư kí cho đồng chí Phan Đức (Tư Trường) là ủy viên
thường vụ của Sài Gòn – Gia Định, bí thư phân khu I trong 6 phân khu
trọng điểm trung tâm chính của Sài Gòn.
Lúc này khu trọng điểm được chia ra như sau:
Phân khu I : Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, một phần các huyện Trảng Bàng, Bến Cát, Dầu Tiếng.
Phân khu II : Bình Tân, quận 3, 5, 6 và bắc Long An
Phân khu III : Nhà Bè, quận 2, 4, 7, 8 và nam Long An
Phân khu IV : Thủ Đức, quận 1, Long Thành, Nhơn Trạch
Phân khu V : Bình Hòa, Phú Nhuận, Dĩ An, Lái Thiêu, Phú Giáo, Tân Uyên
Phân khu VI : Nội đô Sài Gòn.
Cũng
trong giai đoạn này ông đi lên Tây Ninh để gặp đồng chí Phan Đức (Tư
Trường) thì lúc này ông được gặp ông Võ Văn Kiệt. Với sự thông minh và
nhanh nhẹn của mình ông điều sang trực tiếp giúp việc cho đồng chí Võ
Văn Kiệt (bí thư khu ủy Sài Gòn – Gia Định).
Phần I: Quá trình chuẩn bị cho trận đánh Mậu Thân
Lúc
này có chỉ thị “Tất cả xuống đường” thì ông cùng với hai đồng chí là Ba
Minh – phó công an quận 5 và đồng chí Phạm Thanh Vân – trưởng phòng
chính trị đi tiền trạm do sự phân công của đồng chí Võ Văn Kiệt giai
đoạn này là tháng 8 năm 1967. Đi từ căn cứ R (Căn cứ trung ương cục)
xuống Ba Thu (khu đất Campuchia tiếp giáp Long An). Từ đây đi thẳng
xuống Bến Lức qua lộ số 4 (quốc lộ 1) rồi đi xuống Cần Đước. Đi nhằm mục
đích xây dựng căn cứ với mục đích chuẩn bị cho cuộc hành quân sắp tới
của đồng chí Võ Văn Kiệt (trong thời gian này anh Kiệt là Tư lệnh của
mặt trận tiền phương). Trước khi cuộc hành quân của anh Sáu Kiệt đã nhận
được nhiều lời khuyên của các đồng chí khác.
Thiếu tướng Thạnh
(Ba Thạnh) có khuyên rằng: “Xuống chiến trường rất nguy hiểm, nên ở lại
Ba Thu chỉ đạo. Nếu bây giờ mà vô Sài Gòn thì không an toàn”. Lời khuyên
của anh Ba Thạnh rất được nhiều các đồng chí khác đồng tình. Nhưng lúc
này anh Sáu Kiệt nói: “Tôi là tư lệnh của mặt trận tiền phương Tây Nam,
thì tôi phải đi xuống chiến trường”. Theo anh Sáu, với vai trò là Tổng
chỉ huy mặt trận tiền phương Nam, anh không thể đứng ngoài cuộc mà phải
đi vào mặt trận, không thể sợ chết mà ở ngoài được. Thế là anh Kiệt cùng
với anh Trần Bạch Đằng (phó tư lệnh mặt trận) và hơn 100 cán bộ từ R mà
đi thẳng xuống Long An băng qua lộ số 4 về xã Long Cang (huyện Cần
Đước) vào đêm 30 Tết.
Tại một ngôi đình của xã Long An do không
biết có bị lộ hay sự trùng hợp thì thời điểm này pháo của địch bắn hơn
100 trái tại đây. Nhưng thật may mắn là không có thương vong đáng kể.
Sang mùng một Tết thì đoàn của anh Sáu Kiệt đi thẳng xuống một quán cơm ở
xã Hưng Long (Nam Bình Chánh). Và ngay trong đêm cả đoàn đi xuồng máy
tiến vào quận 8 ở giữa cầu Bà Tàng và đình Bình Đông (nơi mà bác Tôn Đức
Thắng và nhiều người cách mạng đã hoạt động tại đây). Xóm này mọi người
gọi là xóm Hố Bần.
Phần II: Diễn biến của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968
Ngày
31 – 1 – 1968 (mùng 1 tết): Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu xảy ra, Biệt
Động Sài Gòn của ta đánh vào các cứ điểm: Tòa Đại Sứ Mỹ, Dinh Độc Lập,
Đài Phát Thanh… Đây là những mục tiêu trọng điểm của Sài Gòn.
1h30
thì tiếng súng tấn công vào Dinh Độc Lập, tại đây cuộc chiến diễn ra
hết sức ác liệt. Đội 5 do đồng chí Tô Hoài Thanh chỉ huy đã tiêu diệt 3
xe lính. Tuy đói và mệt nhưng các chiến sĩ vẫn chiến đấu suốt ngày 31 –
1, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt hành chục tên. Toàn đội
hy sinh 7 người, số còn lại buộc phải rút vào nhà dân cố thủ trên lầu 3
chiến đấu.
Lúc này mình đã chiếm giữ Đài Phát Thanh đây là cơ
quan thông tin đầu não của địch, địch hết sức hoang mang vì thiếu thông
tin từ bộ chỉ huy. 6 giờ sáng ngày hôm sau thì thủy quân lục chiến và
thiết giáp địch bao vây đài phát thanh dày đặc trước tình huống đó thì 2
đồng chí dùng thuốc nổ phá hủy đài và anh dũng hi sinh.
1h45p
thì đội biệt động số 11 gồm 17 cán bộ do đồng chí Ngô Thành Vân (ba Đen)
chỉ huy dùng bộc phá đánh thủng mảnh tường sát gần lô cốt góc đường
Thống Nhất – Mạc Đỉnh Chi đột nhập vào khuôn viên tòa đại sứ. Đánh chiếm
từ tầng 1 đến tầng 3. Đến 5h sáng hôm sau thì trước sự kháng cự quyết
liệt của Mỹ - Ngụy, bên ta bị thương và hi sinh gần hết. Đến 9h thì địch
tràn gập đại sứ quán Mỹ, chỉ còn một mình Ba Đen bị thương. Anh cũng là
nhân chứng duy nhất còn lại của trận đánh Đại sứ quán Mỹ tết Mậu Thân.
Trong khi đó một cách quân sự khác tiến công chiếm một phần quận 8, cầu
Nhị Thiên Đường, cầu chữ Y, cầu Chà Và làm bàn bàn đạp để tiến sâu vào
nội ô.
Đánh chiếm Đại Sứ Mỹ, Dinh Độc Lập và Đài Phát Thanh tuy
giữ không được lâu nhưng tạo một sự kiện gây chấn động dư luận của thế
giới, nhất là nhân dân Mỹ. Xóa đi cái “lừa dối” xưa nay của địch là miền
Nam đã gần bình định xong, Sài Gòn rất ổn định, Việt Cộng không thể nào
xâm phạm vào thành phố và nhất là dinh thái thú “bất khả xâm phạm”: Đại
Sứ Quán Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
(Xác hai tên lính Mỹ trong trận đánh tại Đại sứ quán)
Đại
Sứ Mỹ giữ không được, Dinh Độc Lập cũng bị đánh thì làm gì có cái hi
vọng mà thắng lợi. Ông Tư Cang rất tâm đắc với câu nói của ông Trần
Trọng Tân nói: “Đánh Dinh độc lập và Đại sứ Mỹ là cái rốn để rúng động,
là trọng điểm của trọng điểm”.
Mùng 3 tết sau đó địch phản công
dữ dội khiến bộ chỉ huy phải rút về xã Huy Đức – Hưng Long để tiếp tục
chỉ đạo. Anh Bạch Đằng và thiếu tướng Hải Phụng cùng một số lực lượng vũ
trang tiến sâu vào cảng Bình Đông (quận 8) còn anh Kiệt thì ở tại chỗ
Hố Bần để chỉ huy.
Tối mùng 3, thì đồng chí Nguyễn Đức Hùng – chỉ
huy trưởng biệt động Sài Gòn được giao liên dẫn đường đến gặp trực tiếp
anh Kiệt để báo cáo tình hình. Thì các anh xác nhận chiến sĩ biệt động
chiến đấu hết sức dũng cảm, đạt được tiến quan hết sức lớn. Mặc dù sự hi
sinh của anh em hết sức cảm động nhưng sự hi sinh đó là sức mạnh để làm
chuyển biến tình hình.
Tối mùng 4 thì anh Kiệt rút quân qua xã
Huy Đức và xã Hưng Long (Nam Bình Chánh) trụ lại ở đây và chỉ đạo. Lúc
này bộ phận đi theo anh Kiệt khá đông nên rất dễ bị phát hiện nên phân
công cho ông Tư Cang dẫn gần 100 cán bộ (điện đài, mật mã, cơ yếu y tế…)
trở về xã Phước Vân, huyện Cần Đước để trụ lại tiếp tục hoạt động.
Có
một sự kiện xảy ra, địch tổ chức cuộc càng bố thì lúc này anh Kiệt đang
ở nhà của đồng chí Lùn bí thư xã Huy Đức. Địch đã đến rất gần, thì gia
đình mở bộ ván để chui xuống hầm bí mật. Và bộ ván được làm lại như cũ,
ngồi trên bộ ván đó là gia đình của đồng chí Lùn sinh hoạt bình thường
nhằm che mắt địch. Những người ở phía trên nắp hầm rất lo lắng cho tính
mạng của anh Sáu vì địch đi càng rất lâu, sợ anh Sáu sẽ bị ngạt.
Lúc
địch càng qua thì người nhà mở nắp hầm cho anh Kiệt lên và anh Kiệt
không bị gì cả. Nếu một người bình thường thì có thể bị ngất xỉu và
thậm chí có thể tử vong nhưng với phẩm chất và ý chí kiên cường của con
người cách mạng đã giúp đồng chí vượt qua những lúc khó khăn và nguy
hiểm nhất.
Trước ngày 5 – 5 – 1968 thì ông Tư Cang có trở vô Xã
Đông Thạnh (Cần Giuộc) để chuẩn bị cho đợt 2. Nếu có điều kiện thì vào
xã Đa Phước (Bình Chánh) để trở lại quận 8. Nhưng tình hình lúc này hết
sức khó khăn nên ông phải ở lại Phước Vân.
Một câu chuyện xảy ra với ông Tư Cang:
“Khi
về tới xã Phước Vân để hoạt động thì địch bắn pháo điểm ngay căn cứ làm
việc. Địch bắn pháo điểm cách ông Tư Cang khoảng 10m, lúc này ông Tư
Cang đang ngồi viết báo cáo. Khói mù mịt, ông bắt đầu thu gom tài liệu
để chuẩn bị xuống công sự ẩn náu. Lúc này đồng chí Út Đức (Nguyễn Văn
Đức, xã Tân Thạnh Tây, huyện Củ Chi) – bảo vệ ban công vận, đứng trên
công sự quan sát thì đồng chí thấy tôi chậm vì lo thu xếp tài liệu. Thì
đồng chí chạy lại ôm tôi bỏ tôi xuống công sự, đồng chí nhảy xuống sau.
Thì lúc này máy bay địch đã tới oanh tạc, đồng chí đã nhảy xuống công
sự nhưng phần đầu chưa xuống hết nên đã bị một viên bi trong trái bom bi
xuyên ngang đầu và chết ngay trên lưng của tôi. Nếu đồng chí sợ chết
thì đồng chí sẽ ẩn náu ngay từ đầu, nhưng vì đồng chí lo cho tôi nên
phải hi sinh” – Ông Tư Cang kể lại với giọng nói hết sức xúc động.
(Sau
trận bom, thì tôi và các đồng chí khác chôn Út Đức ngay tại công sự đó.
Tối đó thì có làm một cái mộ và bia. Sau 1975, trở về tìm mộ thì ngay
ngôi mộ đó là một hố bom. Theo sự kể lại của người dân, sau đó máy bay
tiếp tục oanh tạc và thả bom ngay trúng ngôi mộ của đồng chí. Lúc này
tôi không tìm được hài cốt chỉ tìm được cái bia lỗ chỗ đạn và lúc này
tôi cùng ông Ba Minh lấy một nắm đất dưới hố bom đem về nghĩa trang
Thành phố để làm mộ giả.)
Đợt 2 nổ ra ta tấn công vào Sài Gòn và
các đô thị lớn ở miền Nam đúng kế hoạch nhưng yếu tố không còn yếu tố
bất ngờ. Khác với lần này ta không dùng lực lượng đặc công, biệt động
đánh vào mục tiêu mà sử dụng lực lượng tổng hợp bao gồm các lực lượng
mũi nhọn, biệt động các ban, ngành, đoàn thể và một bộ phận chủ lực
Miền, tiến công sâu vào khu vực mục tiêu trong nội đô, trụ lại đánh địch
phản kích nhiều ngày.
Trong hơn 1 tháng liên tục tiến công (4 -5
đến 18 – 6 – 1969), ta đã gây cho địch nhiều tổn thất về sinh lực và
phương tiện chiến tranh, tiếp tục đánh mạnh vào ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ.
Đợt 3 (17–8–1968), ở Sài Gòn – Gia Định do thực tiễn có
nhiều khó khăn, khả năng dùng lực lượng từ xa đánh vào Sài Gòn gặp nhiều
hạn chế nên phải chuyển hướng chiến trường trọng điểm sang Tây Ninh,
dọc biên giới Campuchia và một số địa phương ở miền Đông Nam Bộ nhưng
diễn ra yếu và rời rạc. Lợi dụng tình hình đó, địch đẩy mạnh bình định,
tấn công giành lại nhiều vùng đã mất, tiến sâu vào các cùng giải phóng,
căn cứ của ta.
Trong sự việc “Bộ tư lệnh tiền phương” của anh
Kiệt và anh Bạch Đằng đã cử một phận nhỏ đi tiền phương và sau đó là anh
Kiệt trực tiếp đi vào nội thành. Ông Tư Cang nhận định: “Chưa có một
đồng chí trung ương nào mà trong tết Mậu Thân vô tới nội thành như ông
Võ Văn Kiệt”. Mặc dù có nhiều lời khuyên anh Kiệt ở lại căn cứ nhưng anh
Kiệt vẫn kiên quyết vào nội thành. Cho thấy anh Kiệt là một con người
không ngại hiểm nguy, sẵn sàng có mặt tại nơi hiểm yếu nhất để trực tiếp
chỉ đạo trận đánh.
Phần 3: Nhận định và đánh giá kết quả trận Mậu Thân
Sau
đợt phản công lần thứ 3 thì nhận chỉ thị rút về Ba Thu, rồi trở về R.
Tại đây có làm một bản bảo cáo tổng kết nhanh trong đó đánh giá một số
đơn vị tổ chức anh hùng:
Biệt Động Sài Gòn rất anh dũng và oai
hùng. Rồi chuyện 34 nữ dân quân tải thương, tải đạn hi sinh toàn bộ.
Chiến công của cánh Hoa vận (người Hoa hoạt động cách mạng) đánh chiếm
tòa hành chánh quận 5. Những hành động cảm động của đồng bào che giấu,
cứu chữa cho cán bộ, chiến sĩ…
Hội nghị đánh giá chủ trương:
“Tổng công kích chiến lược vào đô thị thì đó là chủ trương đúng và táo
bạo”. Tuy hợp đồng giữa các đơn vị chưa chặt, chưa phát huy hết khả năng
nhưng những cái trọng điểm đã làm rất tốt. Hai bên hi sinh và thiệt hại
nặng nề nhưng trả giá cho thắng lợi đó thì hết sức cần thiết.
Từ
chủ trương của Bộ chính trị: “Đánh phối động vô đô thị” – thì đó là chủ
trương chiến lược, rất đúng và rất quyết tâm. Thì dựa vào tiêu chí đó
thì đánh giá rằng tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân là đạt được mục
tiêu.
Nhận định đánh giá sau trận Mậu Thân là yêu cầu làm lung
lay ý chí xâm lược của địch đã đạt được. Sau Tết Mậu Thân thì nhân dân
thế giới nhất là nhân dân Mỹ thức tỉnh, đứng lên chống chiến tranh. Làm
thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm
phán. Tạo nên sự phân hóa, chia rẽ cao độ đối với kẻ thù, thổi bùng lên
ngọn lửa yêu nước và cách mạng trong lòng nhân dân đô thị cùng với các
đồng bào nhiều địa phương toàn miền. Bên cạnh đó còn thúc đẩy cao phong
trào phản chiến của chính binh lính Mỹ
Ông kết thúc câu chuyện mà
để lại trong chúng tôi một cảm giác tự hào và biết ơn trước những gì mà
ông cha đã hi sinh xương máu đem lại sự tự do, độc lập cho đất nước và
dân tộc Việt Nam. Trước khi ra về chúng tôi cảm ơn, chúc sức khỏe ông và
đồng thời có hỏi ông một câu hỏi là: “Ông có lời khuyên gì cho thế hệ
trẻ sau này”
Ông Tư Cang nói:“Con đường tương lai rất rộng mở và
rất cần người tài. Ráng học, làm việc một cách hết mình. Phải có nhuệ
khí và bản lĩnh của Việt Nam. Ở trên Thế giới dân tộc nào cũng cho mình là anh hùng nhưng anh hùng như dân tộc Việt Nam thì ít có. Cho nên thế hệ trẻ phải kế thừa và tiếp tục phát huy bản sắc anh hùng đó, để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh.”
Dũng Lê
Huỳnh Văn Cang (bí danh Tư Cang)
Sinh 1928, quê quán xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi
Hồi nhỏ học ở trường Trung Học Lê Bá Cang ở Sài Gòn
Khi Nhật đảo chánh thì nghỉ học về quê tham gia lực lượng “Thanh niên tiền phong”
Năm 1946: Đi kháng chiến chống Pháp, là cán bộ Thanh Niên cứu quốc cùng với đồng chí Phan Văn Khải bên ban “Công tác thiếu nhi”
1949: Học trường trung học kháng chiến “Thái Văn Lung”
1950: Cơ yếu cho xứ ủy và ủy ban kháng chiến tỉnh Nam Bộ
1954: Tập kết ra Bắc
1965: Cán bộ tuyên huấn khu Sài Gòn – Gia Định. Làm thư ký cho ông Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ
1975: Chủ tịch UBND quận 11
1983: Giám đốc sở thương binh xã hội Tp.HCM.
1995: Về Hưu.
Hiện nay: Phó chủ nhiệm CLB truyền thống kháng chiến Tp.HCM