Vào ngày Thứ Bảy 8/3/2008, đã có một buổi hội thảo về Hoàng Sa &
Trường Sa và tình hình Biển Đông nói chung, vào lúc 5:00pm (5 giờ chiều)
tại trường Đại Học Berkeley do Berkeley Vietnamese-American Student
Association tại trường này tổ chức. Người tham dự hầu hết là sinh viên ở
lứa tuổi 20 - 30. Diễn giả là các anh Vinh Trần (tốt nghiệp khoa sử học
tại University of Chicago), anh Lân Nguyễn (tốt nghiệp khoa chính trị
học ở University of San Diego) và cô Liên Trần (sinh viên cao học phân
khoa chính trị, Berkeley University, một trong những sáng lập viên của
nhóm VietWill - www.vietwill.net). Trưởng ban tổ chức là cô Christie Hồ,
hội phó ngoại vụ của Hội Sinh Viên Việt Nam tại đây.
Vì ở xa,
anh Vinh Trần đã trình bày chủ đề qua hệ thống truyền hình trực tiếp.
Cách nói chuyện của anh chứng tỏ anh nắm khá vững vấn đề, tuy nhiên vì
trở ngại kỹ thuật từ hình ảnh tới âm thanh nên cử tọa cũng khó nghe
được. Điểm son của cả người thuyết trình lẫn cử tọa là sự kiên nhẫn và
kỷ luật để chờ đợi người trách nhiệm điều chỉnh kỹ thuật xảy ra hầu như…
mỗi phút một lần! Cũng xin nói thêm là ngôn ngữ sử dụng trong buổi hội
thảo hoàn toàn là tiếng Anh, cộng thêm những trục trặc kỹ thuật khiến cử
tọa không thu nhận được là bao phần thuyết trình của anh Vinh, vì vậy
bài trình bày của Lân Nguyễn và Liên Trần mặc nhiên trở thành phần chính
của buổi thuyết trình.
Phần phát biểu của cô Liên có dàn bài
được phóng chiếu lên màn ảnh nên cũng dễ theo dõi. Diễn giả đã trình bày
căn bản của vấn đề về các khía cạnh lịch sử, địa lý và các diễn biến
thời sự gần đây. Phần phát biểu kế tiếp của Lân nhấn mạnh vào điểm:
Chúng ta cần phải làm gì.
Trong phần trao đổi ý kiến, một số điểm đã được nêu lên và được đả thông, tóm lược như sau:
1.
Về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958 chỉ là một bản
công hàm mang tính xã giao, cho biết sẽ tôn trọng lãnh hải của nước CHND
Trung Hoa. Đây không phải là công hàm thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một văn kiện không
có giá trị pháp lý về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa. Thứ nhất: trong
công hàm không thấy đề cập đến các hải đảo. Thứ hai: cả hai quần đảo này
đều nằm dưới vĩ tuyến 17, vào năm 1958 vốn không thuộc chủ quyền của
Việt Nam mà là dưới quyền cai quản của chế độ Mỹ-Diệm, và trước đó là
thuộc quyền cai trị của thực dân trong thời Pháp thuộc. Do đó chính
quyền Việt Nam không thể ký kết nhượng lại cho ai một vật mà họ không quản lý. Còn một vấn đề khác, theo hiến pháp và luật pháp Việt Nam từ năm
1946 thì lãnh thổ và lãnh hải là chủ quyền thiêng liêng bất khả xâm
phạm, bất cứ một văn kiện nào dâng nhượng lãnh thổ đều là vi hiến và vi
phạm luật pháp. Thực tế cũng cho thấy Trung Quốc rất ít khi đưa ra bản
công hàm này ra trong các buổi đối thoại công khai với Việt Nam và các
nước liên quan, vì công hàm này không chứng minh được chủ quyền của họ
đối với 2 quần đảo này. Trung Quốc đầu tiên chỉ công bố công hàm này
trên Internet vào năm 2001 để tung hỏa mù, gây hoang mang trong dư luận
người Việt. Những người Việt chống Cộng vô tình hay hữu ý đã tiếp tay
cho Trung Quốc tuyên bố chủ quyền mà họ ngụy biện rằng của họ.
2.
Về trận hải chiến Trường Sa vào năm 1988, một sinh viên thắc mắc rằng:
Nếu quả thật công hàm năm 1958 có ý nghĩa rằng Việt Nam thừa nhận Trường
Sa là của Trung Quốc, thì tại sao năm 1988 Trung Quốc và Việt Nam lại
giao tranh quyết liệt tại đây? Như vậy là mâu thuẫn, một chính quyền
không thể vừa nhượng đất vừa giao tranh với kẻ đến chiếm đất. Kết luận
được rút ra là: Sự kiện có trận hải chiến này càng cho thấy công hàm năm
1958 là vô giá trị về mặt pháp lý, không có ý nghĩa nhượng đất, và
Trung Quốc đã diễn giải công hàm một cách xuyên tạc theo chủ ý của họ.
Trường Sa đã liên tục thuộc chủ quyền của Việt Nam (triều Nguyễn), Pháp,
Mỹ, rồi lại về tay Việt Nam mà không hề có sự hiện diện của Trung Quốc.
Năm 1975 khi Việt Nam giành được hoàn toàn độc lập và thống nhất từ tay
Mỹ, Trường Sa được giải phóng và chuyển qua quyền quản lý của chính
quyền Hà Nội, liên tục cho tới năm 1988 mới có chuyện một hòn đảo ở đây
bị hải quân Trung Quốc xâm lấn và chiếm đóng bất hợp pháp.
2.
Người Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình nói
chung phải góp tiếng nói với chính quyền Trung Quốc và với công luận
quốc tế về tình trạng khủng bố ngư dân Việt Nam ở Biển Đông. Sự kiện
nhiều ngư dân bị hải quân Trung Quốc bắt bớ, có người bị chết, có người
bị mất tích đã chứng tỏ ngư dân Việt Nam đang là nạn nhân của sự hiếu
chiến của hải quân Trung Quốc.
Đính kèm là bản liệt kê các vụ
khủng bố của hải quân Trung Quốc nhằm vào ngư dân Việt Nam trên Biển
Đông: (Thông tin do một số sinh viên đưa ra)
· 12/2004: Bắt 80 ngư dân.
· 8/1/2005: Bắn chết 9 ngư dân, bắn bị thương 8 và bắt cóc thủy thủ đoàn còn lại mang về đảo Hải Nam, TQ.
· 1/2007: Cướp 5 ngư thuyền và bắt 60 ngư dân.
· 26/6/2007: Bắn bị thương 5 ngư dân khi họ đang trú bão tại đảo Hoàng Sa.
· 21/8/2007: Bắt 28 ngư dân tại Trường Sa.
· 15/1/2008: Đâm chìm 1 ngư thuyền và giết 10 ngư dân.
Trung Quốc cáo buộc các ngư dân Việt Nam đã “xâm phạm trái phép chủ quyền lãnh hải” của họ.
3.
Trong cuộc tranh đấu bảo vệ chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa và
Trường Sa, tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại có vai trò chính về việc tuyên
truyền sâu rộng chủ quyền biển đảo của Việt Nam ra ngoài thế giới, vận
động bạn bè quốc tế cùng tham gia phong trào chống Trung Quốc bành
trướng. Phải có những hành động thực tế lan rộng đến những trang web
bạn, những blogs nước ngoài, những diễn đàn ngôn ngữ ngoại quốc, nhất là
tiếng Anh và tiếng Trung. Không thể chỉ ngồi ở diễn đàn nhà và "chửi"
Trung Quốc một cách vô thưởng vô phạt, ta chửi ta nghe. Vì vậy mà mọi
cuộc tranh đấu bảo vệ chủ quyền Việt Nam phải tìm cách làm sao có được
sự tham gia của đông đảo tầng lớp, trong nước đoàn kết với hải ngoại, có
một nỗ lực tổng hợp dưới sự điều phối của chính phủ Việt Nam. Hạn chế
tình hình “mạnh ai nấy làm”, kinh nghiệm lịch sử thời Pháp thuộc đã cho
chúng ta thấy “mạnh ai nấy làm” thì sẽ không bao giờ thành công được.
Đoàn kết là sức mạnh, chia rẽ là tất bại. Vì vậy trước tình hình này
càng phải củng cố khối Đại Đoàn Kết Toàn Dân Tộc, hỗ trợ và quảng bá
Nghị quyết 36. Đồng thời góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước, phát
triển kinh tế Việt Nam, thực tế cho thấy chỉ khi nào kinh tế mạnh, quân
sự mạnh thì người ta mới xem trọng mình và thuận lợi cho việc đàm phán.
4.
Cuộc thảo luận trở nên vô cùng sôi động khi mọi người bàn về thái
độ cần có đối với Trung Quốc, nhất là trong dịp đuốc Olympic được rước
qua San Francisco. Trong cuộc thảo luận này, có một số thành phần chống
phá Việt Nam đã trà trộn vào và kích động xúi giục rằng biểu tình phản
đối phải nhắm vào chính phủ Việt Nam là chính. Quan điểm này đều bị các
sinh viên bác bỏ. Một ý kiến khác cũng bị bác bỏ, vì bị cho là không
thực tế, phản tác dụng, là ý kiến phải trương lá cờ ba sọc của chế độ
Sài Gòn cũ trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và sẽ tìm cách
thuyết phục các du học sinh chấp nhận tham gia biểu tình dưới lá cờ này.
Trong
mục tiêu góp phần vào việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam bằng những việc
làm trong khả năng của thanh niên hải ngoại, chủ trương nhấn mạnh vào
khía cạnh nhân đạo để lên án Trung Quốc sát hại ngư dân Việt Nam và
tranh đấu chấm dứt hành động tàn ác này đã được đa số tán thành vì có
tác dụng nhiều mặt. Đây là việc làm vừa dễ tranh thủ sự cảm thông, đồng
tình của thế giới, vừa giúp ích trực tiếp cho người Việt Nam mà cũng là
tranh đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc tại Biển Đông.
Vấn đề có nên
mang cờ ba sọc hay không trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở
California của anh em sinh viên không hiểu sao lại được một số người cố ý
đem trở lại, sau đó việc này được bàn luận trong sự cân nhắc với nhiều
ưu tư giữa hai nhu cầu:
- Làm sao để các du học sinh có thể yên tâm tham dự biểu tình chống Trung Quốc.
- Làm sao ban tổ chức không bị quy chụp là thân cộng rồi bị chính những người chống Cộng phá hoại cuộc biểu tình.
Sau
cùng, một bạn trẻ đã mạnh dạn xác định dứt khoát về vấn đề “lá cờ”, câu
trả lời là “Không”(!). Từ nay ban tổ chức và những người tham gia biểu
tình chống Trung Quốc ở hải ngoại sẽ không mang theo bất cứ lá cờ nào
cả, sinh viên đó lập luận như sau:
"Tôi không chấp nhận sự xuất
hiện của lá cờ vàng ba sọc trong các cuộc biểu tình vì nó làm hạ thấp
giá trị uy tín của đoàn biểu tình. Đây là lá cờ chỉ đại diện cho một vài
cộng đồng người Việt tỵ nạn ở hải ngoại chứ không đại diện cho tất cả,
và nhất là lá cờ này không đại diện cho quốc gia hay chính thể nào cả.
Ai thích lá cờ đó thì hãy giữ nó trong nhà, đó là quyền tự do cá nhân
của họ. Về lá quốc kỳ Việt Nam nền đỏ sao vàng, đây là lá cờ tôi tôn
trọng, nhất là sau khi Việt Nam và Mỹ đã bang giao với nhau, nhưng trong
cuộc biểu tình chống Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, tôi đặc
biệt cần sự tham gia của đông đảo đồng hương tại hải ngoại, mặc dù đây
là quốc kỳ chính thức của nước Việt Nam trong cộng đồng thế giới, tôi
không đem theo lá cờ đó để bớt đi một cái cớ những kẻ bảo thủ, chống
Cộng cực đoan chửi bới, chống đối, dèm pha, thậm chí có thể chủ động phá
hoại."
Để đoàn người Việt Nam này có một biểu tượng thống nhất,
chúng tôi không dùng lá cờ, mà biểu tượng đoàn kết của chúng tôi là
Trống Đồng Âu Lạc - Việt Nam.
Đây là một biểu tượng mà tất cả mọi người mang dòng máu Lạc Hồng đều có thể chấp nhận.
Đến
đây cuộc hội thảo về Hoàng Sa và Trường Sa tại Berkeley khép lại. Những
thanh niên, thiếu nữ này đã mang lại cho người viết niềm tin và hy
vọng, tự hào ở thế hệ trẻ kiều bào hải ngoại. Trong hàng ngũ của họ, có
những bạn sinh ra ở Mỹ, không nói được tiếng Việt hoặc nói tiếng mẹ đẻ
rất... bập bẹ. Trong đó cũng có những bạn mang rõ ngoại hình của một
thanh niên mới qua Mỹ không lâu, không rõ là du học sinh hay qua đây
theo diện nào khác, nhưng nhìn chung thì tất cả đều tha thiết với việc
bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Berkeley tuy cách xa quê hương Việt Nam
vạn dặm nhưng hình như con người Việt Nam có thể rời xa quê hương nhưng
không thể nào lấy tinh thần dân tộc ra khỏi mỗi người Việt Nam. Những
người trước đây lầm đường lạc lối cũng dần trở về với hàng ngũ dân tộc.
Đó là lý do ngày xưa quân đội viễn chinh Pháp / Mỹ hùng mạnh như vậy mà
còn phải thúc thủ trước sức đề kháng của cha anh chúng ta. Quân Giải
Phóng Trung Quốc cũng bị quân đội ta đánh bật ra khỏi 6 tỉnh biên giới
phía bắc năm 1979. Trung Quốc ngày nay dù vô cùng lớn mạnh, là một siêu
cường hàng đầu thế giới, nhưng một ngày nào đó họ nhất định phải bước ra
khỏi Hoàng Sa và một phần Trường Sa của chúng ta.
Giấc mộng bành
trướng và bá chủ biển Đông của Trung Quốc sẽ mãi mãi chỉ là giấc mơ khi
người Việt Nam chúng ta đồng lòng đoàn kết đối phó.
H.T.S.